Các trường hợp viết nối chữ từ khó đến dễ
Để quá trình dạy bé tập viết ứng dụng các chữ ghi vần, ghi tiếng đạt được hiệu quả cao thì trước tiên, phụ huynh cần hướng dẫn cho các em về kĩ thuật viết nối chữ. Nối chữ không chỉ giúp các bé có thể liên kết và tạo ra nét chữ đẹp hơn mà còn giúp tốc độ viết chữ của các bé ngày càng nhanh hơn.
Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ viết thường, tạo nên sự liên kết của một tổ hợp chữ cái ghi vần, ghi tiếng. Dựa vào những nét cơ bản của chữ cái viết thường, chudep.com.vn xin giới thiệu đến phụ huynh 4 trường hợp nối chữ ( từ dễ đến khó) như sau:
Trường hợp 1: Nét móc của chữ cái trước nối với nét móc (hoặc nét hất ) đầu tiên của chữ cái sau.
Ví dụ: a – n = an, i – m = im, a – i = ai, t- ư = tư…. Nhìn chung, trường hợp này viết dễ dàng và thuận lợi, yêu cầu học sinh thực hiện được ngay từ lớp 1.
- Lưu ý học sinh:
Khi nối hai nét móc ở hai chữ cái, cần điều tiết về khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho vừa phải, hợp lí để chữ viết đều nét và có tính thậm mĩ. Ví dụ: an, am…khoảng cách giữa a và n hơi hẹp lại, bằng khoảng cách giữa a và i (ai), tránh cách xa quá.
Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc (hoặc nét hất) đầu tiên của chữ cái sau.
Ví dụ: e – m = em, c- ư = cư, ơ- n = ơn, o- i = oi…trường hợp nối chữ này cũng tương đối dễ dàng, được dạy ngay từ lớp 1.
- Lưu ý học sinh:
Điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá hay xa quá (ví dụ: em, cư) hoặc chuyển hướng ngòi bút ở cuối nét cong (kín) để nối sang nét móc (hoặc nét hất) sao cho hình dạng hai chữ cái vần rõ ràng, khoảng cách hợp lí ( ví dụ: ơn, oi..)
Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau.
Ví dụ: a – c = ac (ác), h – o = ho (họ), g – a = ga (gà), y – ê = yê (yêu),…Đây là trường hợp nối chữ tương đối khó, vừa đòi hỏi kĩ thuật lia bút vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách sao cho vừa phải, hợp lí. Học sinh có thể được làm quen từ lớp 1 nhưng chưa đòi hỏi phải đạt được đầy đủ yêu cầu.
- Lưu ý học sinh:
Xác định điểm kết thúc (dừng bút) ở chữ cái trước để lia bút viết tiếp chữ cái sau sao cho liền mạch, tạo thành một khối hai chữ cái. Ví dụ: ác, họ, gà,…
Điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái trước hơi doãng rộng một chút để khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải (không gần quá). Ví dụ: ao – điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái a để khi viết tiếp chữ cái o sẽ có khoảng cách giữa a và o không gần quá (bằng khoảng cách giữa a và i (ai).
Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau.
Ví dụ: o – e = oe, o – a = oa, x – o = xo, e – o = eo,…Đây là trường hợp nối chữ khó nhất, vừa đòi hỏi kĩ thuật rê bút, lê bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối, vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách hợp lí, trên cơ sở thói quen và kĩ năng viết khá thành thạo. Trường hợp này đã được hướng dẫn từ lớp 2 nhưng đến lớp 3 mới yêu cầu học sinh thực hiện.
- Lưu ý học sinh:
Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o chúc xuống để gặp điểm bắt đầu của chữ cái e sao cho nét vòng ở đầu chữ cái o không to quá (oe). Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a (hoặc c) để thành oa (oc) sao cho khoảng cách giữa o và a(c) hợp lí (không gần quá hoặc xa quá).
Lia bút từ điểm cuối của chữ cái x (hoặc e) để viết tiếp o, cần ước lượng khoảng cách giữa hai chữ cái vừa phải (không gần quá)…
++ Khi dạy viết ứng dụng cách chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa đứng đầu tiên (tên riêng, chữ viết hoa đầu câu…), phụ huynh (giáo viên) cần hướng dẫn học sinh cách viết tạo sự liên kết (bằng nối nét hoặc để khoảng cách hợp lí) giữa chữ cái viết hoa và chữ cái viết thường trong chữ ghi tiếng (chữ viết hoa). Cụ thể như sau:
- 17 chữ cái viết hoa A, Ă, Â, G, H, K, L , M, Q, R, U, Ư, Y (kiểu 1) và A, M, N, Q (kiểu 2) có điểm dừng bút hướng tới chữ cái viết thường kế tiếp, khi viết cần tạo sự liên kết bằng cách thực hiện việc nối chữ.
Ví dụ: An Khê, Gia Lai, Nghệ An, Quảng Ninh,…).
- 17 chữ cái viết hoa B, C, D, Đ, E, Ê, I, N, O, Ô, Ơ, P, S, T, V, X (kiểu 1) và V (kiểu 2) có điểm dừng bút không hướng tới chữ cái viết thường kế tiếp, khi viết cần căn cứ vào trường hợp cụ thể để tạo sự liên kết bằng cách viết chạm nét đầu của chữ cái viết thường vào nét chữ cái viết hoa đứng trước, hoặc để khoảng cách ngắn (bằng ½ khoảng cách giữa 2 chữ cái viết thường) giữa chữ cái viết thường với chữ cái viết hoa.
Ví dụ: Bà Trưng, Phan Bội Châu,…)
Lưu ý:
- Cách chữ cái viết thường có nét 1 là nét hất (i, u, ư) hoặc nét móc (m, n), nét khuyết xuôi (h) thường liên kết với một số chữ cái viết hoa nói trên bằng cách viết chạm đầu nét hất (nét móc, nét khuyết xuôi) vào nét chữ cái viết hoa.
- Các chữ cái viết thường có nét 1 là nét cong (a, ă, â, e, ê, g, o, ô, ơ) hoặc nét thắt (r) thường “liên kết” với các chữ cái viết hoa nói trên bằng một khoảng cách ngắn (không thực hiện việc nối nét).
Trong thực tế viết chữ, khi gặp các chữ cái viết hoa không có điểm dừng bút hướng tới chữ cái viết thường kế tiếp, ta có thể tạo thêm nét phụ (nét hất) để lấp khoảng cách, liên kết chữ và tạo đà lia bút ( ví dụ: Bằng), hoặc điều chỉnh nét cơ bản của chữ cái sao cho phù hợp với sự liên kết và thực hiện việc nối chữ ( ví dụ: Trường điều chỉnh nét thẳng xiên ở chữ cái r).
Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu của cấp Tiểu học (các lớp 1, 2, 3), để tập trung củng cố, duy trì biểu tượng đúng về chữ viết cho học sinh (tránh gây biến dạng về hình chữ cái do tạo thêm nét phụ hoặc điều chỉnh nét cơ bản), thì yêu cầu nói trên chưa đòi hỏi thực hiện.